Chiết khấu là một quan hệ hợp đồng mà theo đó các tổ chức tín dụng mua lại các loại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Bài viết này sẽ giúp bạn tìm hiểu chi tiết hơn về nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
Khái niệm chiết khấu
Nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại chủ yếu nhằm vào đối tượng là các thương phiếu do các thương nhân sở hữu. Đây cũng là cách để các ngân hàng có thể tài trợ vốn cho giới thương nhân trong các thương vụ buôn bán, nhất là các thương vụ quốc tế. Cùng với thời gian ấy, sự phát triển đa dạng của các loại giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại đã khiến cho các đối tượng chiết khấu tại ngân hàng cũng ngày càng trở nên đa dạng hơn.
Ngày nay, hoạt động chiết khấu của các ngân hàng trên thế giới đều hướng tới việc mua bán các loại giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán ngắn (dưới 1 năm) như hối phiếu, tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu… do các tổ chức, cá nhân hoặc Chính phủ phát hành và đang được phép lưu thông trên thị trường. Vì thế, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại đã ở thành hình thức tín dụng hỗ trợ cho các nhà kinh doanh trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình.
Xét theo góc độ kinh tế, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại có bản chất là nghiệp vụ tín dụng, bởi vì khi chiết khấu giấy tờ có giá của khách hàng, tổ chức tín dụng dụng cam kết mua các loại giấy tờ có giá của khách hàng trước hạn thanh toán, với điều kiện là khấu trừ ngay một số tiền nhất định tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mệnh giá của các giấy tờ có giá được chiết khấu trong thời gian chiết khấu.
Xét theo khía cạnh kinh tế, do hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá được xác lập và thực hiện bởi vì nhu cầu cấp tín dụng cho khách hàng nên mang một ý nghĩa kinh tế như là một hợp đồng tín dụng. Còn nếu xét về khía cạnh pháp lý thì hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá thực chất lại là hợp đồng mua bán giấy tờ có giá, với nội dung thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ người bán sang cho người mua theo giá cả thoả thuận.
Theo quy định hiện hành, hợp đồng nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại phải được thành lập một văn bản và các nội dung phải phù hợp với pháp luật cũng như là phù hợp với hợp đồng mẫu do Hiệp hội ngân hàng ban hành. Theo Điều 12 Thông tư của Ngân hàng Nhà nước số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/03/2013 quy định về chiết khấu theo công cụ chuyển nhượng cùng các giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Những quy định chung về chiết khấu
Chiết khấu chính là một loại nghiệp vụ ngân hàng mà một ngân hàng trả trước kỳ hạn cho người có kỳ phiếu, chẳng hạn như số tiền ghi trên kỳ phiếu bớt đi một khoản khấu trừ được gọi là tỷ suất chiết khấu hoặc là lãi chiết khấu. Lãi chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Người sở hữu các thương phiếu hay các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác thì có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ trả cho mình khoản tiền bằng với mệnh giá. Phương thức chiết khấu này được áp dụng để mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn ra đời do với nhu cầu kinh doanh của ngân hàng ở các nước tư bản và đó được xem là một hình thức cấp tín dụng. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các tín dụng thương mại không được nhà nước thừa nhận nên phương thức chiết khấu sẽ không được áp dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hiện nay, ở các nước, phương thức chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn không chỉ áp dụng trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mà còn được áp dụng trong những lĩnh vực khác.
Ở Việt Nam, chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn lần đầu tiên được quy định cụ thể ở Luật ngân hàng nhà nước năm 1997, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật thương mại (năm 1997 và năm 2005). Ngoài Các văn bản pháp luật về phát hành trái phiếu Chính phủ có một số quy định về mua, bán trái phiếu theo phương thức chiết khấu.
Tác động của lãi suất chiết khấu trong nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại
Lãi suất chiết khấu có vai trò rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng, do ngân hàng trung ương quyết định. Lãi suất chiết khấu ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ dự trữ tiền mặt của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại sẽ thường so sánh lãi suất chiết khấu với lãi suất thị trường nhằm đưa ra quyết định giảm hay tăng tỷ lệ dự trữ. Cụ thể:
Nếu lãi chiết khấu cao hơn thì ngân hàng thương mại sẽ không để tỷ lệ tiền dự trữ trở nên quá thấp. Đặc biệt, cần tránh tỷ lệ tiền dự trữ chạm mốc an toàn
Nếu lãi chiết khấu bằng hay thấp hơn so với lãi suất thị trường thì ngân hàng có thể cho vay một cách thoải mái. Ngân hàng thương mại chỉ cần dừng lại ở ngay mức tỷ lệ an toàn tối thiểu. Nếu như thiếu tiền mặt thì ngân hàng hoàn toàn có thể vay từ ngân hàng nhà nước.
Bài viết trên đây đã cung cấp cho bạn những thông tin cơ bản về nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại. Hy vọng những thông tin cung cấp bổ ích này sẽ giúp ích cho bạn trong quá trình làm việc.